>> Công cụ phát triển các dạng thức ngôn ngữ ở trẻ em (Phần 1)
Công nghệ hiện nay thường xuất hiện trong nhiều lớp học mầm non. Nhiều trẻ em có quyền tiếp cận với máy tính, và ngày càng nhiều lớp học mầm non và mẫu giáo có thể truy cập Internet. Bảng trắng kỹ thuật số đang thay thế bảng phấn ở một số trường học.
Cuộc thảo luận về trẻ em và công nghệ, Diễn đàn Công nghệ và Quyền lợi trẻ em của NAEYC (2008), cùng các diễn đàn khác (Haugland 2000; Stephen & Plowman 2008), lưu ý rằng máy tính có thể được sử dụng ngày một phù hợp hơn, nhưng họ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp công nghệ với các hoạt động trong lớp và sử dụng các tương tác được hướng dẫn hơn là chỉ sử dụng máy tính một cách đơn thuần. Clements và Sarama chỉ ra rằng "làm việc với máy tính có thể làm nảy sinh các trường hợp và hình thức cộng tác làm việc mới" (2003, 36).
Nhiều giáo viên sử dụng các phần mềm giáo dục mầm non được thiết kế để giúp trẻ em học màu sắc, chữ cái, con số và đạt được sự khéo léo trong việc sử dụng bàn phím và chuột. Một số giáo viên mở rộng thêm hoạt động sang sách đĩa CD-ROM hoặc sách tương tác trực tuyến (ví dụ, www.readinga-z.com và www.razkids.com) hoặc ghé thăm các trang web giáo dục với các thông tin đáng quan tâm (như các loài bướm, giao thông, môi trường sống, v.v…). Clements và Sarama, sau khi xem xét nghiên cứu của họ trên trẻ nhỏ và công nghệ, kết luận rằng máy tính, nếu được sử dụng một cách khôn ngoan, "sẽ có đóng góp độc đáo và đáng kể đến việc giáo dục trẻ em" (2003, 40); chính những công nghệ như vậy có thể hỗ trợ cho việc dạy và học trong sự phát triển xã hội và cảm xúc, phát triển nhận thức và học tập, sáng tạo, ngôn ngữ và đọc hiểu, và toán học.
Từ vựng và đọc hiểu có một mối liên hệ mật thiết (NICHD 2000). Hội đồng Nghiên cứu khả năng hiểu và diễn đạt ngôn ngữ quốc gia (2008) xác định ngôn ngữ nói, bao gồm từ vựng, như là một biến quan trọng để hình thành khả năng đọc hiểu về sau. Từ ngữ, tuy vậy, được học theo ngữ cảnh chứ không riêng rẽ. Trẻ em cần nhiều kinh nghiệm đa dạng, phong phú về từ ngữ và vốn từ vựng phong phú. Nhìn chung nghiên cứu của Christ và Wang (2010) nêu bật sự cần thiết phải tiếp xúc với thật nhiều từ mới trong một bối cảnh. Các phương tiện truyền thông trực quan có thể giúp mở rộng vốn từ vựng của trẻ em khi chúng lắng nghe từ vựng mới khi nhìn thấy những từ hoặc khái niệm trong một hành động cụ thể. Ví dụ như khi trẻ em xem một video về các chuyến tàu, chúng thấy và nghe những từ như cây cầu, trên, dưới, và toa để hành lý của xe lửa.
Ngôn ngữ dạng thức trong giáo dục mầm non có liên quan mật thiết đối với sở thích của trẻ, kế hoạch vui chơi, và các hoạt động học tập. Trẻ nhỏ học bằng cách tương tác một cách chủ động với các dụng cụ học tập cũng như với người khác và dựa trên nền tảng những kiến thức trẻ đã biết để hình thành ý nghĩa mới cho những thứ/đồ vật/ sự kiện mới lạ mà trẻ lần đầu tiếp xúc (Vygotsky [1934] 1986). Khi xem các video phù hợp về mặt phát triển, phù hợp với sở thích và các hoạt động vui chơi, các chủ đề học tập của mình, trẻ em có thể bắt đầu kết hợp các ngôn ngữ mà trẻ đã được sử dụng trong các hoạt động chơi trước đó làm thành vốn từ vựng của chúng. Mục đích ở đây không phải là sử dụng các video trực tuyến thay thế cho việc học ngôn ngữ từ vựng thông qua tương tác ý nghĩa, mà sử dụng công nghệ như một phương pháp gia tăng và phương tiện hấp dẫn để hỗ trợ cho trẻ học những nội dung và từ vựng không có cấu trúc hoặc trừu tượng.
NAEYC (Copple & Bredekamp 2009, 315) khuyến cáo rằng các giáo viên không nên sử dụng công nghệ để thay thế cho những trải nghiệm thực tế mà "để mở rộng phạm vi của các công cụ mà trẻ em có thể sử dụng để tìm kiếm thông tin, giải quyết vấn đề, mở rộng khái niệm." Lưu ý điều này, giáo viên có thể nâng cao việc học tập của trẻ em bằng cách sử dụng phương tiện truyền thông trực quan để trải nghiệm được những điều tưởng như không thể hoặc không hề thực tế trong lớp học.
Nguồn tài liệu thu hút các Gia đình từ Cửa hàng trực tuyến của NAEYC
Hãy tưởng tượng, các giáo viên mầm non đang hô biến một khu vực chơi đóng kịch thành một quán pizza. Hầu hết trẻ em đều dễ dàng đóng vai khách hàng và người phục vụ, nhưng rất nhiều đứa trẻ không được trải nghiệm việc làm ra một chiếc bánh pizza hay những gì xảy ra trong quầy bếp. Mặc dù một chuyến đi đến một tiệm bánh pizza địa phương có thể cho chúng một cái nhìn bao quát của việc làm bánh pizza, trẻ em vẫn cần được trải nghiệm điều này nhiều lần để củng cố và nhập tâm các kiến thức và từ vựng. Vậy hãy mở trang YouTube.
Người giáo viên tìm kiếm "Làm Pizza 101", và một menu bật lên, liệt kê gần 200 video được thực hiện bởi một loạt những nhà hàng và gia đình khác nhau. Bọn trẻ bắt đầu thêm ngôn ngữ dạng thức (chúc ngon miệng, bột nhào, kem tươi, kéo giãn, trộn đều, vv) vào cuộc chơi của chúng. Ngoài việc người giáo viên đó có thể lên giáo trình học tập của trẻ em bằng cách chơi đóng kịch, với các đoạn video trực tuyến, cô ấy có một phương tiện khác nữa để khám phá các cách làm bánh pizza mà có thể nghe và nhìn từ nhiều hướng khác nhau.
Từ xây nhà khối lắp ghép tới việc học những bước nhảy cho đến việc khám phá các máy móc giản đơn, từ việc đếm cho tới việc làm nước chanh, các trang web chia sẻ video nuôi dưỡng sự hiểu biết của những đứa trẻ về các khái niệm cũng như từ vựng. Cùng với sự giám sát, trẻ em cũng được trải nghiệm thực tế tự mình nghiên cứu Internet để tìm hiểu thêm được nhiều hơn.
Giáo viên có thể đưa các video clip vào hoạt động thường ngày hay những hoạt động nhóm nhỏ sử dụng một máy chiếu LCD hoặc bảng trắng, tạo điều kiện cho tất cả học sinh có thể xem. Với các nhóm nhỏ và cá nhân, một màn hình máy tính là đủ. Hầu hết các clip chỉ kéo dài vài phút và thu hút sự chú ý của trẻ em. Xem video hái bí ngô trước khi lớp tới thăm một trang trại bí ngô có thể giới thiệu kinh nghiệm mới và bắt đầu quá trình tìm hiểu, đặt câu hỏi, xuất hiện các từ vựng mới. Xem clip hướng dẫn lắp ghép tòa tháp khối đứng cao có thể giúp nhiều cho những đứa trẻ chưa nắm vững kỹ năng này. Chìa khóa để sử dụng những video trực tuyến phù hợp cho sự phát triển là một phần trong kế hoạch chu đáo, có chủ ý của giáo viên.
Để đảm bảo có được những trải nghiệm thích hợp và có ý nghĩa, giáo viên cần phải lên danh sách video, thu hẹp phạm vi rộng lớn của thư viện video trực tuyến.
Để đảm bảo có được những trải nghiệm thích hợp và có ý nghĩa, giáo viên cần phải lên danh sách video, thu hẹp phạm vi của thư viện video trực tuyến. Video clip miêu tả trò chơi mà sử dụng các dụng cụ khác nhau có thể cung cấp cho trẻ em các mô hình của tư duy phản biện và vốn từ vựng. Theo dõi những mối quan tâm, nhu cầu, và chủ đề nghiên cứu của trẻ em, giáo viên có thể tạo các danh sách nhạc mà trẻ em có thể truy cập thông qua các máy tính trong lớp học hoặc bảng trắng.
Tuy nhiên, thay vì tìm kiếm các video clip cụ thể trước mặt con trẻ, giáo viên cần chuẩn bị trước, tạo danh sách nhạc của riêng mình. Ví dụ, trước khi lớp học bắt đầu, một giáo viên có thể sao chép và dán địa chỉ web cho một video cụ thể vào một tài liệu Word và sau đó bật bằng trình duyệt web đơn giản bằng cách nhấp vào nó. Nói thêm về khái niệm này, hiện nay giáo viên có thể tập hợp các video clip YouTube có liên quan đến nhau làm một phần của blog trực tuyến. Trang web http://childrensyoutube.blogspot.com là một ví dụ. Để tìm hiểu làm thế nào để đưa một video cụ thể lên blog riêng của bạn, hãy xem "Các tài liệu cho việc sử dụng video trực tuyến trong lớp học."
Ban đầu, giáo viên cần phải chủ động và hỗ trợ trẻ em sử dụng video. Một khi trẻ em học được cách tìm và nhấp chuột vào các danh sách nhạc, chúng có thể tự làm tiếp được. Mặc dù lợi ích của việc sử dụng video trực tuyến trong lớp học là vô cùng lớn, công nghệ mới này chắc chắn không phải không có giới hạn của nó và chứa đựng mối lo tiềm tàng. Sau cùng, do các phương tiện truyền thông chủ yếu mang tính dân chủ, ai cũng có thể tham gia nên đôi khi các thông tin được đăng tải có thể vượt quá giới hạn của những chỉ dẫn ban đầu. Kết quả là, nhiều nội dung video được tải lên không phù hợp với học viên trẻ.
Để giải quyết những thách thức này, Google đã thuê hàng trăm người nhận xét để giám sát các nội dung đăng tải lên video trên cơ sở 24/7, đồng thời cũng dựa vào cộng đồng trực tuyến của mình để báo cáo thông tin đăng mang tính công kích để gỡ bỏ. Ngoài ra, Google cũng sử dụng thu thập dữ liệu web, hoặc chương trình tìm kiếm, để tự động tìm kiếm và loại bỏ các nội dung vi phạm (Rosen 2008). Giáo viên và phụ huynh có thể tham khảo bài viết khác nhau để giải quyết những rủi ro của việc sử dụng công nghệ. Cụ thể có một bài báo trực tuyến viết bởi Shields và Behrman (2000) sẽ cung cấp cho bạn rất nhiều thông tin.
Trong tương lại gần, các trang web chia sẻ video sẽ vẫn chứa đựng hỗn hợp những nội dung vừa mang tính giáo dục cũng như không phù hợp. Trong khi một số người có thể lập luận rằng sự tồn tại của vế thứ hai làm cho công nghệ đặc biệt này trở nên vô dụng nếu được sử dụng như một công cụ giảng dạy, chúng tôi lại cho rằng đó là vai trò của người lớn trong việc tận dụng lợi ích của nó.
Khi công nghệ được tích hợp một cách đầy ý nghĩa vào chương trình giảng dạy mầm non, các tiềm năng của nó trong hoạt động học tập là vô tận (Hồng & Trepanier-Street 2004). Với sự gia tăng của các trang web chia sẻ video, giáo viên và trẻ em có cơ hội không chỉ để xem video có sẵn mà còn tạo được cho riêng mình các video riêng. Video trực tuyến đang trở nên phổ biến, có sẵn trên hàng triệu máy tính, điện thoại di động, và bây giờ, ngay cả TV.
Thách thức đặt ra là làm sao chúng ta có thể tận dụng thế mạnh của công nghệ để nó có thể được sử dụng cho các mục đích giáo dục. Trong lĩnh vực giáo dục sớm rõ ràng khuyến khích các cơ hội học tập là trách nhiệm và vai trò của cha mẹ và giáo viên.. Việc chia sẻ và trao đổi thông tin dưới hình thức video như là cách phát triển một dạng thức ngôn ngữ mới để cộng đồng người học chia sẻ và xây dựng những ý tưởng mang một tiềm năng rất lớn.
TRANG ĐANG CẬP NHẬT...