Heejung ngồi máy tính đọc e-mail, trong khi đứa con trai 3 tuổi của cô ấy là Jay thì ngồi chơi xe lửa dưới sàn nhà ngay bên cạnh cô. Jay lắp các đoạn đường ray lại nhưng bắt đầu thấy hơi nản chí khi không lắp được một số đoạn vào một cây cầu nhựa. Cậu bé lẩm bẩm "Nó bị hỏng rồi", sau đó túm lấy khuỷu tay mẹ để nhờ mẹ giúp.
Heejung cũng không thành thạo với bộ đồ chơi thiết kế đường ray xe lửa, nên cô nghĩ "Không biết YouTube có clip nào hướng dẫn lắp ráp xe lửa không." Cô vào website YouTube và tìm kiếm tên nhãn hiệu của đoàn tàu. Một danh sách liệt kê hàng chục video bật lên. Một số clip nằm trong bộ PBS dành cho trẻ em, nhưng cũng nhiều video các gia đình khác tự quay để mô tả đủ các kiểu thiết kế đoàn tàu.
Trong hơn một giờ, Jay ngồi trên đùi mẹ mình, chăm chú xem video về thiết kế đoàn tàu và các kỹ thuật lắp ráp. Heejung biết đây không phải như ngồi xem TV lãng phí thời gian rồi không suy nghĩ gì nhiều. Thay vào đó, cô lại cho rằng Jay đang phát triển kỹ năng nhận thức mới khi cậu bé xem các đoạn video.
Tối đó, sau khi chúc Jay ngủ ngon, Heejung phát hiện ra rằng con trai mình đã thực sự giải quyết được vấn đề. Tất cả các đoạn ray được lắp đặt một cách hoàn hảo, và động cơ xe lửa đã ở sẵn trên cầu, chờ đợi cuộc phiêu lưu tiếp theo.
Những trường hợp tương tự như vậy (về tác giả thứ nhất và con trai của cô) xảy ra hàng ngày với hàng ngàn hộ gia đình và các chương trình giáo dục trẻ từ sớm. Trẻ em, gia đình và giáo viên sử dụng các website chia sẻ video (như youtube.com, teachertube.com, ehow.com, vimeo.com, hulu.com, và viddler.com) làm những kênh mới để học tập và chia sẻ thông tin (Helft 2009). Bài viết này tìm hiểu những tác động sư phạm của hiện tượng kỹ thuật số tương đối mới này trong bối cảnh phát triển dạng thức ngôn ngữ.
---------------------
Heejung An, EdD, là Phó giáo sư Giáo dục Công nghệ tại Đại học Sư phạm William Paterson ở Wayne, New Jersey. Chuyên môn của bà liên quan đến công nghệ và giáo dục cho trẻ em. anh2@wpunj.edu
Holly Seplocha, EdD, là Phó giáo sư Giáo dục mầm non tại trường William Paterson. Holly làm việc với các giáo viên khác để kết hợp khả năng đọc, viết và công nghệ vào các dự án và thực hiện các điều tra nghiên cứu đối với trẻ em. seplochah@wpunj.edu
(Bài viết này lấy từ kho lưu trữ trực tuyến tại www.naeyc.org/yc/pastissues)
----------------------
Video trên web tạo ra một thể loại mới của dạng thức ngôn ngữ trong đó cộng đồng trực tuyến chia sẻ các phương pháp hay nhất và không ngừng phát triển các phương pháp bổ sung hoặc những cách thức mới để giải quyết vấn đề.
Theo ghi nhận của Alexander (1977, 1979), phát triển dạng thức ngôn ngữ là một quá trình trong đó cộng đồng tự do chia sẻ thông tin, với mục đích phát triển phương pháp tốt nhất. Quá trình trao đổi rồi dẫn tới học hỏi về những dạng thức mới đã diễn ra trong nhiều thế kỷ, thường là thông qua các hội thợ xây, thợ dệt, thợ đẽo đá, và nhiều hội khác (Alexander 1977, 1979). Thông qua các cuộc trao đổi thông tin, các thành viên của hội hoặc các cộng đồng học viên khác chia sẻ và nhờ vậy đã củng cố được nhiều cách thức để hoàn thành các nhiệm vụ khác nhau. Đối với việc thiết kế và xây dựng các tòa nhà, các thị trấn, các khu vườn, và vô vàn các dự án khác, mục đích là liên tục cải tiến chất lượng đồng thời cũng tạo điều kiện cho người học cảm thấy mình được là một phần của một cộng đồng lớn hơn. Theo Alexander, các phương pháp này không có động cơ lợi nhuận, thay vào đó là dành cho lợi ích chung.
Với sự phát triển của website, khả năng tự do trao đổi dạng thức thông tin đã phát triển theo cấp số nhân. Ví dụ, trong những năm 1990, lập trình viên máy tính đã viết và trao đổi mã trong các cộng đồng trực tuyến, và bây giờ website video cho phép các chuyên gia và những người không biết gì, như nhau, chia sẻ thông tin - miễn phí - về hàng ngàn chủ đề khác nhau. Hàng triệu người trên khắp thế giới có thể miêu tả kiến thức mới và cũ một cách trực quan thông qua các video trực tuyến. Sự gia tăng các nội dung video dễ dàng tiếp cận và không tốn chi phí đã nhanh chóng thay đổi video trực tuyến từ một phương tiện ban đầu chỉ để giải trí và cung cấp tin tức thành một công cụ tham khảo được xây dựng từ cộng đồng.
Công nghệ này tạo thêm giá trị, bởi vì việc tìm kiếm dựa vào video cung cấp những cách mới để diễn giải và truyền tải thông tin mà văn bản không làm được (Helft 2009). Video trực tuyến cho phép người học xem đi xem lại những quy trình phức tạp mà khó có thể diễn đạt bằng bút chì và trên giấy, đối thoại qua lời nói, hoặc thậm chí mô tả ngay trước mặt (Bransford, Brown, & Cocking 2000). Ví dụ, nếu một giáo viên có thể hướng dẫn một đứa trẻ cách buộc giày của mình, thì một video sẽ cho phép người học tua đi tua lại để xem mô tả cho tới khi thành thạo được công việc đó. Video trực tuyến cũng cho phép người xem xem những điều mà đáng lẽ họ không tiếp cận được.
Video trên web tạo ra một thể loại mới của dạng thức ngôn ngữ trong đó cộng đồng trực tuyến chia sẻ các phương pháp hay nhất và không ngừng phát triển các phương pháp bổ sung hoặc những cách thức mới để giải quyết vấn đề. Các quá trình xử lý nhận thức diễn ra khi thực hiện biên tập và chia sẻ video cũng có thể cải thiện những cách mà người học hiểu thế giới xung quanh họ.
Prensky gọi trẻ em ngày nay là những công dân kỹ thuật số, một thuật ngữ dành cho "những người chuyên sử dụng các ngôn ngữ kỹ thuật số của máy tính, trò chơi video, và Internet" (2001a, 1). Trẻ em sinh ra trong thiên niên kỷ mới và lớn lên cùng với những công nghệ kỹ thuật số mới có khả năng "suy nghĩ và xử lý thông tin cơ bản khác với thế hệ cha ông của họ" (Prensky 2001a, 1; và Brown 2000; Prensky 2001b; Oblinger & Oblinger 2005).
Vì vậy, một cách hay để tiếp cận những công dân kỹ thuật số là thông qua giao tiếp bằng chính ngôn ngữ họ dùng. Prensky (2001b) đã chỉ ra,
Những công dân kỹ thuật số đã quen với thế giới trò chơi video mà trong đó tốc độ chóng mặt, đa nhiệm, truy xuất ngẫu nhiên, đồ họa là số 1, trực tuyến, kết nối với nhau, thú vị, tưởng tượng, thanh toán nhanh chóng, MTV, và Internet trở nên nhàm chán trong lối giáo dục ngày nay, có thể hiểu như vậy. Nhưng tệ hơn, nhiều kỹ năng mà công nghệ mới đã thực sự củng cố được (ví dụ, xử lý song song, nhận thức về đồ họa, và truy xuất ngẫu nhiên) – vốn mang lại ảnh hưởng sâu sắc cho việc học tập - thì gần như hoàn toàn bị bỏ qua bởi các giáo viên. (Tr. 5)
Trẻ nhỏ, thậm chí trẻ mới biết đi, thường rất quen thuộc với các loại công nghệ này. Hàng ngàn phụ huynh chia sẻ video trực tuyến của con em họ với gia đình và bạn bè. Nhiều trẻ em nhìn thấy các thành viên trong gia đình sử dụng các thiết bị cầm tay như điện thoại di động để truy cập vào YouTube. Trẻ em - cũng như người lớn - muốn chia sẻ một trong số những thứ chúng đã tạo ra được, từ những đường ray tàu cho tới những khối nhà lắp ghép. Nói cách khác, nhiều trẻ em đã coi video trực tuyến như là một nguồn tài nguyên tham khảo chúng có thể sử dụng và đóng góp thêm vào, không chỉ là một phương tiện chỉ để xem một cách thụ động. Sự khác biệt này là rất quan trọng và chắc chắn sẽ tác động đến cách thức mà con trẻ ngày nay nhận thức về thông tin từ video khi chúng lớn lên (Prensky 2001b).
Lấy một ví dụ, trẻ em có thể chia sẻ những gì chúng đã học được, từ đó góp phần thêm và kiến thức của người khác. Hãy xem xét trường hợp điều tra một lớp mẫu giáo trong thành phố. Sau khi xem xét các tòa nhà trong khu dân cư, các học sinh mẫu giáo xây dựng một khu phố lắp ghép, ghi hình lại, và chia sẻ nó trên YouTube. Một lớp khác có thể chia sẻ kinh nghiệm làm con rối, giải thích các bước để tạo ra những con rối. Việc chia sẻ video giúp các giáo viên dễ dàng hơn trong việc trao đổi với gia đình và người giữ trẻ về các hoạt động trong lớp. Ví dụ, nếu một lớp đang thiết kế một khu vườn để làm sáng đẹp khu vực xung quanh trường học, các em có thể nhận được hỗ trợ nhiều hơn cho các sáng kiến của mình thông qua việc quay phim và chia sẻ một video trực tuyến, mà những ai tham gia và cả người ngoài lớp cũng có thể nhìn thấy. Quay phim các hoạt động đã được lên kế hoạch cùng sự tham gia của gia đình ở trường (ví dụ, một Trái tim khỏe mạnh Fiesta) có thể khuyến khích các gia đình tham gia nhiều hơn vào các sự kiện sau này.
Điều quan trọng là phải xem xét những cách thức khả dụng, theo đó học viên trẻ hiểu được nội dung mô tả và các quy trình dựa trên video để giúp chúng cố gắng khám phá được thế giới.
Một số giáo viên mầm non vẫn còn hoài nghi rằng các trang web chia sẻ video có tạo thêm bất kỳ giá trị nào cho quy trình giáo dục truyền thống hay không (Hong & Trepanier-Street 2004). Họ "có xu hướng coi công nghệ như một "tạo tác", thay vì liên tưởng tới nó trong ánh sáng của 'kiến thức' , ‘quy trình,' hoặc 'tự nguyện'" (Siu & Lam 2005, 355).
Điều đó nói rằng, hiện có rất nhiều tài liệu nhấn mạnh lợi ích của việc kết hợp các công nghệ kỹ thuật số vào các học viên trẻ. Công nghệ này giúp trẻ em có thể mở rộng sự hiểu biết của chúng theo những cách khác nhau và trên các mức độ nhận thức khác nhau (Hong & Trepanier-Street 2004)? Điều quan trọng là phải xem xét những cách thức khả dụng, để có thể giúp trẻ hiểu được nội dung mô tả và các quy trình dựa trên video để giúp chúng cố gắng khám phá được thế giới.
.........
(còn tiếp)
TRANG ĐANG CẬP NHẬT...