Bạn không cần phải mạo hiểm đi vào vùng Old West hay du hành vào không gian để có thể trở thành một người tiên phong. Dưới đây là 12 nhà tiên phong trong lĩnh vực giáo dục đã khai phá “địa hình chông gai” hơn nhiều để định hình lại việc học tập hiện đại.
Horace Mann lớn lên vào khoảng thời gian khi mà giáo dục không dễ dàng dành cho những người sống ở các khu vực nông thôn nghèo của Mỹ. Mặc dù giáo dục ban đầu của bản thân bị hạn chế, ông vẫn vào trường đại học Browns, học luật, và sau đó có được một sự nghiệp chính trị rất thành công. Trong suốt thời gian ông là nghị viên và thượng nghị sĩ trong cơ quan lập pháp của tiểu bang Massachusetts và cuối cùng là thư ký của hội đồng giáo dục tiểu bang Massachusetts; ông đã dùng sự ảnh hưởng của mình để thúc đẩy sự tiến bộ trong hệ thống giáo dục của Mỹ. Chúng ta có thể cảm ơn Horace Mann vì những trường cao đẳng đào tạo giáo viên, những thư viện miễn phí, và giáo dục công miễn phí cho tất cả trẻ em thông qua thuế.
Freidrich Froebel là một nhà giáo dục người Đức, những triết lí giáo dục của ông ảnh hưởng tới những người như Horace Mann và Maria Montessori. Được dựa trên niềm tin rằng một đứa trẻ sở hữu những đặc tính bẩm sinh sẽ bộc lộ ra từ từ trong môi trường tự nhiên, ông thiết lập các trường mẫu giáo nơi mà tự do phát biểu, tính sáng tạo, giao tiếp xã hội, vận động và học tập thông qua thực hành được lấy làm trọng tâm. Nhiều trong số các nguyên lí tương tự có thể được tìm thấy trong chương trình giáo dục mầm non hiện đại của chúng ta.
Là một công dân của nước Anh, giấc mơ của Charlotte Mason là tất cả trẻ em, không phân biệt tầng lớp xã hội, nên có cơ hội để hưởng nền giáo dục nghệ thuật tự do. Bà tận tụy cải thiện cách mà trẻ em được giáo dục. Thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục của bậc cha mẹ trong việc kỉ luật và huấn luyện trẻ em, bà thành lập Hội Liên hiệp phụ huynh. Bà tin rằng trẻ em học hiệu quả nhất thông qua “những cuốn sách sống” hơn là những cuốn sách giáo khoa khô khan và thông qua những trải nghiệm thực tế. Phương pháp của bà nhấn mạnh về thích thú với nghệ thuật và các nghiên cứu của những nghệ sĩ, nhạc sĩ. Nhiều bài thực hành giáo dục của bà rất phù hợp với giáo dục tại nhà và phương pháp của bà trở thành nền tảng cho nhiều gia đình giáo dục tại nhà.
Bất kì ai đã tham gia lớp học tâm lí trẻ em sẽ nghiên cứu các lí thuyết phát triển và học tập của Jean Piaget, nhà tâm lí học người Thụy Sĩ. Mê hoặc với lí luận về trẻ em, ông bắt đầu nghiên cứu và viết những quyển sách về chủ đề tâm lí trẻ em. Sau khi ông kết hôn và là bố của ba đứa trẻ, ông được cung cấp đầy đủ dữ liệu để viết ba quyển sách nữa. Nghiên cứu của ông và những giả thuyết sau đó đã trở thành căn cứ và nền tảng của am hiểu về sự phát triển bình thường ở trẻ em
Sự thông minh, trí tưởng tượng và sự cống hiến cho học trò của Bancroft đã khiến bà trở thành một nhà giáo dục phi thường. Vào năm 25 tuổi, bà bắt đầu nỗ lực mở các trường nội trú tư nhân đầu tiên ở Haddonfield, New Jersey, cho trẻ em chậm phát triển một cách dũng cảm và đơn độc. Bà tin rằng trẻ khuyết tật cần những trường học đặc biệt, những chất liệu học tập phù hợp, và những giáo viên được đào tạo tốt hơn là bị gửi vào những tổ chức. Những học trò của Bancroft đã đáp lại tình cảm, sự kiên nhẫn và hướng dẫn riêng lẻ phù hợp của bà. Dưới sức ảnh hưởng của bà, các chuyên gia y học bắt đầu nhận ra trách nhiệm của họ là giúp đỡ sửa chữa những khuyết tật và sự bất lực ở trẻ em, Những người ngưỡng mộ kĩ năng của bà đến để huấn luyện và sau đó trở thành người đi đầu trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt.
Sinh ra trong chế độ nô lệ và sau đó được giải phóng, Washington nhận biết rất rõ ràng rằng giáo dục có thể tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của một người. Khi còn trẻ, Washington được bổ nhiệm là người đứng đầu của học viện Tuskegee giờ được gọi là Đại học Tuskegee, mà ban đầu là trường đào tạo giáo viên cho người Mỹ gốc Phi. Ông là người lãnh đạo của trường cao đẳng từ lúc trường mới hình thành cho đến khi ông mất. Ông trở thành nhân vật có ưu thế và ảnh hưởng lớn trong số những nhà chính trị và công chúng nói chung. Ông đã đóng góp rất nhiều để mở đường cho quyền công dân sau này và xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc trong giáo dục công. Ông tin rằng giáo dục là cơ hội tốt nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Phi hướng đến một xã hội bình đẳng và cuộc sống tốt hơn.
Khi là giáo sư triết học và là hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm thuộc Đại học Chicago, Dewey đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong ngành và đẩy mạnh nhiều cuộc cải cách giáo dục thông qua những trường học thực nghiệm của ông. Quan điểm của ông là: trẻ em nên được khuyến khích phát triển “nhân cách tự do” và trẻ nên được dạy cách suy nghĩ và đưa ra cách nhìn của riêng mình hơn là được lấp đầy đầu bằng những kiến thức. Ông cũng tin rằng trường học là những nơi mà trẻ em được học sống một cách hợp tác. Là một thành viên của hiệp hội giáo viên đầu tiên, ông quan tâm đến quyền của giáo viên và sự tự do học thuật của họ.
Phương pháp Montessori vẫn còn là lựa chọn phổ biến cho rất nhiều bậc phụ huynh đang tìm kiếm cách giáo dục cho những đứa trẻ của họ, đặc biệt là cho trẻ mầm non trong suốt những năm đầu đời. Trước khi bà có sự hứng thú với giáo dục, Montessori là người phụ nữa đầu tiên ở Ý giành được khóa đào tạo để trở thành bác sĩ. Bà được phân công chăm sóc y tế đối với các bệnh nhân ở viện tâm thần và đây cũng là lúc mà bà bắt gặp những đứa trẻ thiểu năng thúc dục sự say mê của bà trong ngành giáo dục. Bắt đầu với những cơ sở giữ trẻ tại một trong những khu vực nghèo nhất ở Rome, Montessori đã đưa lí thuyết của mình vào thực tế. Phương pháp của bà bị ảnh hưởng bởi sự đào tạo trước đây trong y học, giáo dục và nhân chủng học. Kết quả phi thường và sớm thu hút sự chú ý từ rất nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Mỹ. Phần còn lại, như họ nói, là lịch sử.
Bắt đầu nói từ điểm xuất phát. Trong khi Horace Mann đấu tranh cho giáo dục công miễn phí của tất cả trẻ em, còn Holt nâng cao nhận thức về sự cần thiết trong cải cách ở những trường học công của Mỹ. Là một nhà giáo dục, ông tin chắc rằng hệ thống giáo dục hiện tại kiềm chế việc học tập của hầu hết trẻ em chủ yếu là bởi vì sợ hãi. Bị vỡ mộng bởi không thể mang đến sự cải cách và cải thiện cho những trường học công, Holt từ bỏ việc giảng dạy và hết lòng dành thời gian cho việc xúc tiến ý tưởng của ông. Ông tin rằng trẻ em học tốt nhất khi được cho phép theo đuổi sở thích của mình hơn là phải học những gì bắt buộc chúng. Hướng đề xuất giáo dục tại nhà dẫn ông đến quyết định cuối cùng rằng nơi tốt nhất để tạo nên một môi trường tự nhiên cho việc học là trong nhà của chính những đứa trẻ. Những cuốn sách của ông có tác động sâu sắc lên sự phát triển của việc trường học tại nhà.
Sinh ra ở Wellington, New Zealand, Marie Clay trở thành người lãnh đạo quốc tế trong nghiên cứu thu nhận sự biết đọc biết viết của trẻ em. Các phương pháp dạy đọc và ngôn ngữ viết của bà được lan tỏa khắp nước mỹ và các nước nói tiếng anh khác từ khi chúng bắt đầu phát triển trước đây ba thập kỷ. Chương trình “phục hồi việc đọc” được phát triển như là phương tiện để nâng cao khả năng cho những trẻ năm đầu đi học đang gặp khó khăn trong việc đọc đến mức trung bình[VD2] . Cấu trúc của chương trình cần phải có sự quan sát học sinh chặt chẽ của giáo viên để thiết kế các bài học mà luôn xây dựng trên những gì trẻ đã biết và đưa trẻ đến trình độ tiếp theo. Trẻ em bị bao quanh bởi môi trường ngôn ngữ phong phú và được khuyến khích chọn đọc các quyển sách đúng với sở thích cá nhân của chúng.
Để đấu tranh với những người ủng hộ chủ nghĩa hành vi tiếp cận đến giáo dục, Bruner phát triển tâm lý học nhận thức và thúc đẩy những người theo xu hướng kiến tạo tiếp cận. Lý thuyết học tập khám phá của ông được dựa trên sự thừa nhận rằng trẻ em học và ghi nhớ tốt hơn những gì chúng tự khám phá và chúng cũng ghi nhớ tốt hơn những thông tin mới nếu kết nối những thông tin đó với những gì đã biết. Nghiên cứu của ông và những lý thuyết theo sau về sự phát triển của trẻ em có sự đồng điệu với công trình của Jean Piaget.
Giả thiết đa trí tuệ của Gardner định hình lại cách nhìn của những nhà giáo dục trong cách học sinh học tập và nên được đánh giá như thế nào. Về mặt lịch sử, trí tuệ được đo bằng khả năng giải quyết vấn đề và biểu lộ nhận thức thông qua các ngôn ngữ được kiểm tra đa dạng và các nhiệm vụ mang tính hiệu suất. Giả thiết của Gardner mở rộng lĩnh vực các cá nhân thể hiện trí tuệ của họ bao gồm ngôn ngữ học, toán học logic, âm nhạc, vận động; đặc biệt, giữa các cá nhân với nhau, và trí tuệ tự nhận thức mỗi người. Thông qua sức ảnh hưởng của ông, việc kiểm tra hiệu suất được chú trọng hơn và các nhà giáo dục đã trở thành ý thức hơn về sự
TRANG ĐANG CẬP NHẬT...